|
Medochemie Ltd là công ty sản xuất dược phẩm quốc tế tổng hợp được thành lập năm 1976 bởi Tiến sĩ Andreas Pittas, là một thành viên của EGA (European Generic Medicines Association). Với 8 nhà máy sản xuất được đặt tại Limassol, Cyprus, 1 nhà máy đặt ở Hà Lan và các quốc gia khác: Trung Quốc, Việt Nam, Phi châu… Là một công ty định hướng xuất khẩu, Medochemie đã được cấp 13 giải thưởng từ chính phủ Cyprus và ba giải thưởng từ Liên minh châu Âu (EU) cho hiệu quả kinh doanh vượt trội. Medochemie hiện có tổng cộng hơn 1.250 người, hơn 600 người ở Syprus và hơn 650 ở nước ngoài, 60% là nhà khoa học Medochemie FE đang sử dụng một hệ thống ERP danh tiếng trong nhiều năm (hơn 3 năm), và từ đầu năm 2011 Medochemie FE tìm kiếm một giải pháp linh hoạt hơn để vận hành nhằm đáp ứng nhu cầu quản trị và quy trình kinh doanh thay đổi liên tục mà giải pháp ERP cũ quá khó khăn để có thể đáp ứng. Medochemie chọn BizForceOne® để triển khai 8 phân hệ: Tài chính- kế toán, Bán hàng, mua hàng, tồn kho, tài sản, sản xuất, nguồn nhân lực và quản trị chất lượng (đáp ứng hệ thống tiêu chuẩn GAMP5 – cho ngành dược theo tiêu chuẩn của Châu Âu).
Tổng Công Ty Cổ Phần Dệt May Hoà Thọ là một thành viên của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, Sản phẩm Dệt May Hoà Thọ đã có mặt ở hầu hết các thị trường trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Đông, Nam Mỹ,…thông qua các nhà nhập khẩu lớn tại nhiều nước. Với gần 7.000 lao động là cán bộ quản lý, các nhà thiết kế, kỹ thuật và công nhân may có tay nghề cao cùng với việc đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, đã sản xuất khoảng 10 triệu sản phẩm trên năm. Dệt May Hoà Thọ đã thực sự trở thành một trong những doanh nghiệp may lớn nhất của ngành Dệt May Việt Nam.
Việc Việt Nam gia nhập WTO đã đem lại cho ngành Dệt May Việt Nam những cơ hội rất lớn về thị trường, về đầu tư, và trên khía cạnh hội nhập quốc tế về chính sách, pháp luật và đàm phán. Đó là Cơ hội & Thách thức mà Dệt may Việt nam nói chung và Dệt may Hòa thọ nói riêng phải vượt qua. Các yếu tố DNVVN cần quan tâm khi ứng dụng CNTT 30% công cụ, 30% qui trình và 40% là con người (Ban quản trị, key users, người nhập liệu bên cạnh với nhà cung cấp giải pháp/ tư vấn). (Theo Stephanie Losee , Dell) (Tham khảo thêm từ ThomasTanda) “…Việc tìm hiểu và ứng dụng các giải pháp công nghệ thông tin (CNTT), nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp, đã và đang là mối quan tâm hàng đầu của các chủ doanh nghiệp. Đặc biệt, là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) thì việc ứng dụng CNTT dường như gặp nhiều chông gai và sỏi đá hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn. DNVVN thường có quy mô hạn chế về nguồn vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng. Do đó, trong quá trình ứng dụng CNTT, các DNVVN cần xác định các ứng dụng nào là cấp thiết cho từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp và chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho phù hợp. Cùng với lộ trình đã được đưa ra, người lãnh đạo phải hiểu rõ các nhu cầu quản lý về mặt số liệu của mình, đây sẽ là cơ sở vững chắc để tiến đến bước tiếp theo là tìm hiểu giải pháp CNTT và nhà cung cấp phù hợp. Yếu tố đầu tiên để đảm bảo việc triển khai thành công đó là chọn lựa được giải pháp phù hợp cùng với nhà cung cấp uy tín. Để chọn lựa được đối tác “đồng hành” với mình, người chủ doanh nghiệp nên chú trọng đến các yếu tố :
Uy tín thương hiệu của nhà cung cấp thường thể hiện qua sự tín nhiệm của cộng đồng sử dụng giải pháp CNTT mà nhà cung cấp đó phát triển, hoặc thông qua các tổ chức đánh giá thị trường. Bên cạnh đó, việc đánh giá sự tồn tại của nhà cung cấp đó trên thị trường giúp doanh nghiệp đảm bảo được rằng họ đang làm việc với một đối tác có tầm nhìn và trung thành với định hướng cho sản phẩm mà họ đang phát triển. DNVVN có thể yên tâm đây là đối tác sẽ cung cấp cho họ một sản phẩm tốt, dịch vụ chăm sóc khách hàng tối ưu và các phiên bản nâng cấp cho sản phẩm trong quá trình sử dụng lâu dài về sau. Một trong các tiêu chí quan trọng khác để đánh giá nhà cung cấp chính là phương pháp luận triển khai của họ, đây chính là phương pháp mà nhà cung cấp áp dụng cho quá trình triển khai giải pháp. Dự án thành công hay không, đúng với kế hoạch đã đề ra hay không hầu hết đều do phương pháp luận được đưa ra có khoa học và phù hợp hay không. Nhà cung cấp giải pháp CNTT uy tín cần có một đội ngũ chuyên viên tư vấn triển khai vừa am hiểu về sản phẩm, vừa hiểu về ngành nghề của doanh nghiệp mà họ đang tư vấn, song song đó là tác phong làm việc chuyên nghiệp, khả năng sư phạm tốt cũng như thái độ luôn niềm nở và tận tình với khách hàng. Nếu cho rằng việc chọn lựa được nhà cung cấp và giải pháp phù hợp là nhân tố bên ngoài, thì nhân tố bên trong chính là yếu tố con người trong doanh nghiệp. Trong quá trình triển khai và ứng dụng CNTT thì nguồn nhân lực là yếu tố đóng vai trò chủ chốt và quyết định thành bại của dự án. Điều đầu tiên phải nói đến đó là sự quyết tâm cao độ của người lãnh đạo doanh nghiệp, nói thế bởi vì họ chính là đầu tàu kéo toàn bộ doanh nghiệp đi theo đúng định hướng mà họ đặt ra, khuyến khích nhân viên thực thi nhằm đảm bảo dự án được triển khai đúng kế hoạch. Ban lãnh đạo nên chọn lựa ra một số thành viên để làm đại diện với mục tiêu giám sát dự án, đảm nhiệm vai trò quyết định các vấn đề phát sinh liên quan trong quá trình triển khai. Yếu tố còn lại không kém phần quan trọng chính là đội ngũ nhân viên – người trực tiếp sử dụng các giải pháp này trong công việc hằng ngày – họ phải như những mắc xích liên kết chặt chẽ với nhau với một tinh thần làm việc cao độ và thái độ hợp tác tích cực. Có như thế nội bộ doanh nghiệp mới đồng hành cùng nhà cung cấp để cùng triển khai một dự án thành công. Do đó, Trưởng dự án cần phải đặt mình vào vị trí của đội ngũ nhân viên tham gia trực tiếp cũng như gián tiếp vào dự án để có thể điều phối công việc một cách nhịp nhàng, đảm bảo được công việc hiện tại và chất lượng dự án đang triển khai. Ngoài ra, yếu tố nguồn nhân lực còn có sự liên quan chặt chẽ đến quy trình hoạt động của doanh nghiệp, các quy trình chồng chéo, đan xen nhau, thiếu tính khoa học sẽ gây cản trở cho việc “công nghệ thông tin hóa” doanh nghiệp. Để chuẩn bị cho quá trình triển khai các ứng dụng CNTT được nhanh chóng, doanh nghiệp cần có giai đoạn chuẩn hóa các quy trình hoạt động. Các nguồn lực có thể sử dụng trong giai đoạn chuẩn hóa có thể xuất phát từ nội bộ hoặc từ phía ngoài doanh nghiệp, đó là từ các tổ chức đánh giá và tư vấn tái cấu trúc quy trình của doanh nghiệp…” (Trích theo Báo Thanh Niên) Song song đó, nhằm nâng cao năng lực quản trị và hiệu quả kinh doanh Tổng công ty đã mất nhiều thời gian để tìm kiếm, chọn lựa một hệ thống ERP phù hợp, từ các phần mềm danh tiếng như SAP, Oracle cho đến các phần mềm tự viết trong Nước. Tuy nhiên, sau một thời gian tìm hiểu thì hầu hết các phần mềm không có đủ sự linh hoạt để đối diện với những thay đổi trong quy trình kinh doanh và chiến lược (những thứ bất biến trong kinh doanh: “sự thay đổi”). Không nản lòng công với sự quyết tâm, Tổng công ty đã không ngại liên hệ và học hỏi việc ứng dụng hệ thống ERP tại các doanh nghiệp bạn, với mục tiêu chọn được một hệ thống linh hoạt, giá cả phù hợp và dễ dàng thực hiện, Tổng công ty đã quyết định chọn hệ thống BizForceOne® để triển khai với 4 phân hệ quản trị: Phân hệ bán hàng, mua hàng, tồn kho và sản xuất.
|
|
|
|
|
Trang chủ Success Story